Bài viết trích trong: “HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG Y TÔNG TÂM LĨNH” )
Thục địa: 8 lạng (thuốc của Thủ túc thiếu âm, Quyết âm)
Sơn thù: 4 lạng (Túc Quyết âm, Thiếu âm)
Sơn dược: 4 lạng (Túc Thái âm)
Mẫu đơn: 3 lạng (Thủ quyết âm, Túc thiếu âm)
Trạch tả: 3 lạng (Thủ túc Thái dương, Thiếu âm)
Bạch linh: 3 lạng (Thủ Thiếu âm, Túc Thái dương, Túc thiếu dương)
Cách dùng
Các vị tán nhỏ, trộn với Thục địa, cho mật ong vào viên bằng hạt ngô đồng (0,3g), mỗi lần uống 70 – 80 viên, với nước muối nhạt. Nên uống khi đói lòng, uống xong ăn thức ăn ngon để trận lên, làm cho thuốc không ở mãi trong dạ dày mà đi thẳng xuống dưới hạ tiêu để tả khí xung nghịch.
Phương này chữa các chứng:
– Can thận bất túc, chân âm suy tổn, tinh khô, huyết kém, lưng đau chân nhức, di tinh, ỉa ra máu, tiêu khát, đau lậu (lâm bế)
– Khí bị đờm dãi vít lấp, mắt mờ, mắt hoa, tai ù, tai điếc, khô cổ, đau họng, đau lưng, đau đùi với các chứng thận hư phát sốt, đổ mồ hôi, đổ mồ hôi trộm, mất máu, thủy tà dồn lên thành đờm (bệnh lâu ngày âm hỏa bốc lên, tân dịch sinh đờm mà không sinh huyết, nên làm mạnh chân thủy để chế bớt tướng hỏa thì đờm tự nhiên tiêu)
– Thủy hư, huyết hư phát sốt, ho hen, khát nước (thận hư thì đưa nhiệt lên phổi mà
sinh ho hen, ấn mạnh đến xương thì nóng bỏng tay), hoặc thận âm hư tân dịch không giáng xuống được, hư hỏng mà thành đờm đến nỗi ho sốc, “Thận khí hoàn là thuốc bổ thủy vì:
Thục địa là thuốc đại bổ tinh huyết, không biết một khi tinh huyết đủ thì chân dương tự nhiên sinh ra, huống chi những vị Sơn thù, Sơn dược đều làm cố sáp được tinh giữ được khí, khí là hỏa, hỏa ở trong thủy là chân dương, thuốc này không hàn không táo, rất bình, rất đạm, rất hay, rất lạ; phỏng có gia giảm chẳng qua vài ba bốn vị.”
– Hoặc đầu choáng váng (dâm dục quá độ, thận khí không thể trở về nguyên chỗ đó là khí hư, mà đầu choáng váng, thổ huyết, băng huyết, rong huyết, can không giữ được huyết, đến nỗi huyết chạy càn bậy, đó là chứng huyết hư mà đầu choáng váng).
– Lại nữa chứng tiểu tiện không nín được, thận hư sinh khát, mất tiếng, răng không
chắc, răng đau vì hư hỏa, buồn phiền vật vã vì huyết hư, lưỡi khô, lưỡi đau, gót chân đau, các chứng lở ghẻ ở hạ bộ, các chứng hư thũng ở đầu mắt, phàm các bệnh sốt của trẻ em mà theo loại chứng dương đều chữa được rất tài, nên bảo rằng “làm mạnh chủ thủy để chế bớt dương quang” là thế.
Công năng
Ông Tiền Ất cho trẻ em là thuần dương không âm, cho nên dùng bài này để chữa được tất cả các chứng như tiên thiên bất túc như chậm mọc răng, chậm biết đi, hở mỏ ác, nghẽo cổ. Vì là thuần dương nghĩa là khí dương còn non, thuần khí không phải nói dương có thừa thì không có phép bổ dương, cho nên bỏ Quế, Phụ để dùng, hễ uống vào là ứng nghiệm ngay, từ đó, tôi tôn là bài thuốc thánh để bổ âm, thực là mở mang được sự mù điếc, mà cứu được nạn chết non, thừa kế được công ơn của Trọng Cảnh mãi mãi. Hễ thận thủy hư không chế được hỏa thì dùng phương này làm chủ. Trong thận không phải chỉ có một mình thủy mà có cả hỏa mệnh môn, thận không hư thì thủy đủ chế được hỏa, thận hư thì hỏa không có thủy chế ngự mà sinh ra chứng nhiệt cho nên gọi là âm hư hỏa động, nên Hà Gian bảo rằng: “thận hư thì sinh nhiệt” là thế. Triệu Dưỡng Quỳ chuyên dùng phương này với liều cao để chữa bệnh và nói: “Đem ngay chứng khát lâu ra mà bàn, nhiệt tà vào vị phủ thiêu đốt tân dịch cho nên sinh khát, sợ tân dịch trong trường vị khô đi nên phải hạ ngay để giữ lấy tân dịch”. Lần sau lại nói: “chỉ uống nước không thể không cho, chứ không có phép chữa nào khác”. Do có chữa nữa cũng chỉ dùng Cầm, Liên, Tri, Bá, Mạch, Vị thiên hoa. Nặng lắm thì gia Thạch cao, Tri mẫu. Ấy đều là lấy thủy hữu hình để tưới vào hỏa vô hình, làm sao tư dưỡng được cho chân âm ở trong thận, nếu đem bài Lục vị cho uống thì khỏi khát ngay, đâu đến nỗi nhiệt truyền vào Thái âm mà sinh ra táo thực đại tiện rắn nữa.
Bài Lục vị chuyên bổ thận thủy, bài Bát vị đã bổ thận thủy lại bổ cả tướng hỏa, tuổi trẻ nên dùng bài Lục vị, người già thủy hỏa đều suy kém thì nên dùng bài Bát vị. Huống chi tuổi già chân thủy ở thận đã hư, tà hỏa nhân đó lấn vào mà làm hư nhiệt, đến nỗi thành các chứng đau lưng, chân bại, nhổ ra đờm, tiêu khát, tiển tiện không nín được, đau lậu, không có Quế Phụ để ôn tán liệu có được không? Người ta sợ nóng nhưng không biết thứ hỏa bổ ấy là nguyên khí chân dương. Nguyên khí của chân dương khi đã hồi phục được thì thứ hỏa tà âm ế phải tiêu ngầm đi, thật là thuốc thánh để chữa chứng thủy tràn lên thành đờm, phương thần để chữa chứng
huyết hư phát sốt, chỉ tư dưỡng phần âm mà hỏa tự nhiên xuống chứ không cần phải giáng hỏa.
Kìa như vị Thục địa tính ấm, Đan bì tính mát, Sơn dược tính chát, Bạch linh tính thấm thấu, Sơn thù tính thu, Trạch tả tính tả, bổ thận kiêm cả bổ tỳ, Phương thư nói: “Bổ ích tỳ vị để bồi bổ cho mẹ của vạn vật”. Thu tinh khí bị hư hao lại, nuôi khí tư dưỡng thận, chế hỏa lợi thủy, khiến cho bộ máy thông lợi mà tỳ thổ khỏe chắc, thật là có bổ có tả để thành công, rõ là phương thuốc hay xưa nay không thay đổi được.
Ý nghĩa
Đó là phương thuốc thuần âm, vị trọng mà nhuận hạ, thuần âm là khí của thận, vị
trọng là chất của thận, nhuận hạ là tính của thận, không dùng bài này thì không thể
khiến cho thủy về nguyên chỗ của nó, trong đó chỉ có Thục địa là đầu vị của tạng này
còn 5 vị kia là tá như:
Sơn dược là âm kim, quẻ cấn biến trong quẻ khảm, cứng đọng mà sinh kim cho nên vào Thủ thái âm làm vinh nhuận da dẻ, thủy phát từ nguồn cao cho nên khơi thủy phải khơi từ núi, vị Sơn dược làm rắn, là Thái âm thổ, nguồn của chân thủy, thủy thổ thành một khí thuận thẳng xuống dưới rốn, như vị Sơn thù là âm mộc, can thận đều ở dưới, mượn chất chua chát để thu liễm sự lan tràn, thủy hỏa lên xuống tất phải do kim mộc làm đường lối, cho nên cùng với Sơn dược làm chủ đi xuống bên tả bên hữu để giữ, khơi tràn ra, hai vị ấy không tách rời nhau, họ Lý họ Chu thường dùng hai vị này ở phương thuốc khác thì biết.
Đơn bì thuốc của Thủ túc Quyết âm, thiếu âm đưa được tâm hỏa xuống bàng quang, thủy hỏa sánh đôi, tả tâm bổ thận mà lại có vị Phục linh thấm thấp để đưa dương xuống. Trạch tả mặn tiết để đưa âm xuống, nào khơi nào tháo, làm cho nước không chỗ nào không chảy xuống vào bể. Ấy là ý nghĩa mầu nhiệm về chế phương này. Một thuyết nói: “Trạch tả để tả thủy tà ở Bàng quang mà tai mắt được sáng suốt, sáu kinh đều chữa cả mà chuyên chú dụng công về can thận, hàn táo không thiên lệch mà bổ được âm, thêm được huyết”. Nếu uống được luôn thì công hiệu khó mà kể cho hết, làm tỏ tai sáng mắt là bảo thấm lợi được thấp nhiệt ở hạ tiêu, thấp nhiệt đã hết thì khí trong trẻo đưa lên cho nên nuôi được 5 tạng, mạnh được âm khí, bổ được hư tổn, khỏi choáng váng đầu, có công năng làm cho tỏ tai sáng mắt ấy là cổ phương thường dùng, người đời nay phần nhiều hay ngờ là làm cho lòa mắt vì uống nhiều quá, thận thủy lợi quá mà mắt phải lòa, vì cổ phương phối hợp nhiều ít rất đúng không thể thêm bớt được.
lưu ý : đây là bài viết có tính chuyên sâu để tránh dùng không đúng thuốc, bệnh nhân không có chuyên môn chỉ nên tham khảo không nên làm theo